Đây là một chất lỏng không màu, dễ bay hơi với mùi thơm nhẹ. Nó được sử dụng rộng rãi làm dung môi, vì là một trong những chlorcarbon ít độc nhất, và nó có thể trộn lẫn với hầu hết các dung môi hữu cơ.
Dichloromethan lần đầu được nhà hóa học người Pháp Henri Victor Regnault tổng hợp năm 1839, cô lập nó từ hỗn hợp của chloromethan và chlor được phơi sáng.
Sản xuất
Trong công nghiệp, người ta tổng hợp dichloromethan bằng cách cho mêtyl chloride hay methan phản ứng với khí clo trong khoảng 400–500 °C. Tại nhiệt độ này, cả hai chất mêtyl chloride và methan tham gia một loạt phản ứng như dưới đây.
- CH4 + Cl2 → CH3Cl + HCl
- CH3Cl + Cl2 → CH2Cl2 + HCl
- CH2Cl2 + Cl2 → CHCl3 + HCl
- CHCl3 + Cl2 → CCl4 + HCl
Hỗn hợp sau phản ứng gồm methyl chloride, dichloromethan, chloroform, và carbon tetrachloride, chúng được phân tách qua quá trình chưng cất.
Ứng dụng
Tính dễ bay hơi và khả năng hòa tan nhiều loại hợp chất hữu cơ của DCM khiến nó trở thành dung môi hữu ích cho nhiều quá trình hóa học. Trong công nghiệp thực phẩm, nó được sử dụng để khử caffein trong cà phê và trà cũng như điều chế chiết xuất từ hoa bia và các hương liệu khác. Tính dễ bay hơi của nó đã dẫn đến việc nó được sử dụng như một chất đẩy phun aerosol và làm chất thổi cho bọt polyurethane.
Liên kết hydro
Methylen Chloride (MC) là một axit Lewis có thể liên kết hydro với các chất cho điện tử. Nó được phân loại là một axit cứng và được đưa vào mô hình ECW. Nó là một dung môi đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu nhiệt động lực học về liên kết cho-nhận. Các hiệu chỉnh liên kết hydro của nhà tài trợ của metylen clorua trong các nghiên cứu nhiệt động lực học này đã được báo cáo.
Các ứng dụnh khác
- Dùng MC trong keo dán
- Gia công chất dẻo, rửa khuôn đúc
- Gia công kim loại, tẩy rửa kim loại
- Dung môi trong sản xuất màng polycarboneta và acetate.
- Đúc sợi thủy tinh polyester
- Đúc bằng dung môi
- Tẩy rửa bề mặt
- Sol khí